Mục lục:

Giá trị ròng của Kamal Hassan: Wiki, Đã kết hôn, Gia đình, Đám cưới, Lương, Anh chị em ruột
Giá trị ròng của Kamal Hassan: Wiki, Đã kết hôn, Gia đình, Đám cưới, Lương, Anh chị em ruột

Video: Giá trị ròng của Kamal Hassan: Wiki, Đã kết hôn, Gia đình, Đám cưới, Lương, Anh chị em ruột

Video: Giá trị ròng của Kamal Hassan: Wiki, Đã kết hôn, Gia đình, Đám cưới, Lương, Anh chị em ruột
Video: ĐÁM CƯỚI THẾ KỶ | Mây Vi lên xe hoa | Chụp hình cưới đẹp xao xuyến giữa lòng Hà Nội 2024, Tháng tư
Anonim

Giá trị ròng của Kamal Hassan là 100 triệu đô la

Tiểu sử về Wiki Kamal Hassan

Kamal Hassan sinh ngày 7 tháng 11 năm 1954 tại Paramakudi, Tamil Nadu, Ấn Độ, là một diễn viên Ấn Độ, đạo diễn, nhà sản xuất, biên kịch, biên đạo múa, vũ công, người viết lời và nhà từ thiện từng đoạt giải thưởng. Sự nghiệp điện ảnh của ông kéo dài hơn 5 thập kỷ, với những tác phẩm đáng chú ý như “Aval Oru Thodar Kathai” (1974), “Moondram Pirai” (1983), “Nayagan” (1987) và “Dasavathaaram” (2008). Anh ấy dường như đã chọn nghề nghiệp của mình sớm, xuất hiện trong bộ phim đầu tiên của mình, “Kalathur Kannamma” (1960) khi anh ấy mới bốn tuổi.

Bạn đã bao giờ tự hỏi Kamal Hassan giàu cỡ nào vào đầu năm 2017? Theo các nguồn có thẩm quyền, người ta ước tính giá trị tài sản ròng của Hassan lên tới 100 triệu đô la, kiếm được nhờ sự nghiệp thành công của anh ấy trong nhiều lĩnh vực khác nhau của ngành giải trí.

Kamal Hassan Trị giá tài sản ròng 100 triệu đô la

Kamal Hassan sinh ra trong một gia đình Tamil, là con út trong một gia đình có bốn người con. Cha anh, D. Srinivasan, là một luật sư, trong khi mẹ anh, Rajalakshmi, là một bà nội trợ. Năm 2012, Kamal tiết lộ rằng tên khai sinh của anh thực sự là Parthasarathy, một cái tên mà chỉ mẹ anh dùng để gọi anh; anh có hai anh trai và một chị gái. Gia đình anh chuyển đến Madras sau khi anh học tiểu học, để các anh chị của anh có thể theo đuổi con đường học vấn cao hơn. Anh ấy ra mắt điện ảnh khi mới 4 tuổi, giành được Huy chương vàng của Tổng thống - Giải thưởng Rashtrapathi cho vai diễn trong “Kalathur Kannamma”.

Sự nghiệp diễn xuất của Hasan có thể được chia thành ba giai đoạn. Giai đoạn đầu tiên là sự nghiệp diễn viên nhí của ông, kéo dài từ năm 1959 đến năm 1965. Các vai diễn đáng chú ý của ông trong giai đoạn này bao gồm một vai kép, vai Babu và Kumar trong “Paarthaal Pasi Theerum” (1962), và lần đầu tiên của ông trong phim Malayalam ngành với “Kannum Karalum” (1962). Giai đoạn thứ hai được đánh dấu bằng sự thăng tiến của anh với tư cách là một vai chính trong phim lãng mạn, trong các bộ phim như “Apoorva Raagangal” (1975), trong đó anh đóng vai Prasanna, một chàng trai trẻ yêu một phụ nữ lớn tuổi; với vai diễn này, anh đã mang về giải thưởng Điện ảnh đầu tiên ở Tamil. Ông cũng đóng vai một người lăng nhăng, Madhu trong bộ phim “Manmatha Leelai” năm 1976, được coi là tai tiếng vào thời điểm đó, nhưng đã đạt được vị thế của tác phẩm kinh điển đình đám trong những năm sau đó. Một tác phẩm kinh điển khác trong thời kỳ này là Maro Charitra (1978), cũng là tác phẩm đầu tay của Kamal trong một bộ phim nói tiếng Telugu. Anh diễn lại vai này ba năm sau, khi đạo diễn K. Balachander làm lại bộ phim bằng tiếng Hindi với tên gọi “Ek Duuje Ke Liye” (1981). Tất cả đều đóng góp đáng kể vào giá trị tài sản ròng của anh ấy.

Là một diễn viên, Kamal vừa sung mãn vừa dạn dĩ. Đặc biệt là trong thập niên 70, trung bình anh ấy quay từ mười đến mười lăm bộ phim mỗi năm. Các vai diễn của anh ấy cũng rất đa dạng, khi anh ấy đóng vai chính trong các bộ phim lãng mạn, phim truyền hình, phim hài, nhạc kịch, cũng như phim hành động và kinh dị. Các vai diễn của anh trải dài từ những vai lãng mạn bảnh bao đến những kẻ giết người tâm thần, chẳng hạn như vai diễn mà anh thể hiện trong “Sigappu Rojakkal” (1978), bộ phim mà anh đã giành được Giải thưởng Điện ảnh lần thứ tư. Kamal giữ kỷ lục là diễn viên có nhiều giải thưởng Filmfare nhất, tổng cộng là mười chín, và cho các bộ phim bằng năm thứ tiếng khác nhau. Trong suốt sự nghiệp dài 50 năm của mình, anh đã đóng vai chính trong hơn 200 bộ phim bằng tất cả các ngôn ngữ chính của Ấn Độ - tiếng Hindi, Malayalam, Tamil, Telugu và Kannada. Sự linh hoạt của anh ấy, cả trước và sau máy quay, đã mang lại cho anh ấy biệt danh “Anh hùng toàn cầu”. Là một trong những ngôi sao điện ảnh Ấn Độ được biết đến nhiều nhất, sự hiện diện của Kamal đã ảnh hưởng đến thành công phòng vé cho nhiều bộ phim của anh ấy, từ đó làm tăng đáng kể giá trị tài sản ròng của anh ấy.

Song song với sự nghiệp diễn xuất, Kamal còn kiêm luôn công việc viết kịch bản, sau đó là đạo diễn kiêm nhà sản xuất. Hầu hết các bộ phim anh viết đều trở thành tác phẩm kinh điển đình đám, chẳng hạn như “Rajapaarvai” (1981), “Sathya” (1988), “Thevar Magan” (1992), “Kurudhippunal” (1995) và “Hey Ram” (2000). Năm 1981, ông thành lập công ty sản xuất của riêng mình, Raaj Kamal Films International, công ty sản xuất và phân phối nhiều bộ phim của ông. Kamal lãnh đạo công ty với sự giúp đỡ của những người anh em của mình.

Về cuộc sống cá nhân của mình, Kamal hiện đang sống ở Chennai, Tamil Nadu, Ấn Độ cùng với người bạn đời của mình, Gautami Tadimalla. Kamal trước đây đã kết hôn hai lần, với Vani Ganapathy (1978–1988) và Sarika (1988–2004), và có một cô con gái sau mỗi cuộc hôn nhân. Kamal được biết đến với lòng từ thiện và những quan điểm thường mâu thuẫn với xã hội Ấn Độ truyền thống, bảo thủ. Ông ta tự xưng là người theo chủ nghĩa vô thần, với những quan điểm chính trị thiên tả. Anh ấy thúc đẩy các nguyên nhân khác nhau và đặc biệt tận tâm giúp đỡ trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV / AIDS và ung thư.

Đề xuất: