Mục lục:

Humphrey Bogart Giá trị ròng: Wiki, Đã kết hôn, Gia đình, Đám cưới, Lương, Anh chị em
Humphrey Bogart Giá trị ròng: Wiki, Đã kết hôn, Gia đình, Đám cưới, Lương, Anh chị em

Video: Humphrey Bogart Giá trị ròng: Wiki, Đã kết hôn, Gia đình, Đám cưới, Lương, Anh chị em

Video: Humphrey Bogart Giá trị ròng: Wiki, Đã kết hôn, Gia đình, Đám cưới, Lương, Anh chị em
Video: ĐÁM CƯỚI THẾ KỶ | Mây Vi lên xe hoa | Chụp hình cưới đẹp xao xuyến giữa lòng Hà Nội 2024, Có thể
Anonim

Giá trị ròng của Humphrey DeForest Bogart là 5 triệu đô la

Tiểu sử về Humphrey DeForest Bogart Wiki

Humphrey Bogart sinh ngày 25 tháng 12 năm 1899 tại Thành phố New York, Hoa Kỳ, là một diễn viên màn bạc và sân khấu nổi tiếng, từng đoạt giải Oscar, được biết đến nhiều nhất qua các bộ phim như “The Maltese Falcon” (1941), “Casablanca” (1942), “Giấc ngủ lớn” (1946), và “Kho báu của Sierra Madre” (1948). Sự nghiệp của Bogart bắt đầu vào năm 1921 và kết thúc vào năm 1956. Ông qua đời vào năm 1957.

Bạn đã bao giờ tự hỏi Humphrey Bogart giàu có như thế nào vào thời điểm ông qua đời? Theo các nguồn có thẩm quyền, người ta ước tính giá trị tài sản ròng của Bogart lên tới 5 triệu đô la, một số tiền kiếm được nhờ sự nghiệp diễn xuất thành công của anh ấy. Ngoài việc trở thành một ngôi sao lớn trên màn ảnh rộng, Bogart còn đóng phim trên sân khấu và đài phát thanh, điều này cũng giúp cải thiện sự giàu có của anh ta.

Humphrey Bogart Trị giá tài sản ròng 5 triệu đô la

Humphrey Bogart là con cả của Belmont DeForest Bogart và Maud Humphrey, và được lớn lên trong một gia đình Anh-Hà Lan (cha) và Anh (mẹ) cùng với các chị gái Frances và Catherine Elizabeth. Anh đến trường Delancey trước khi chuyển đến trường Trinity danh tiếng. Gia đình khá giả của Bogart đã sử dụng các mối quan hệ của mình để gửi anh ta đến trường nội trú ưu tú Phillips Academy, với kế hoạch tiếp tục học tại Yale, nhưng Humphrey bị trục xuất vào năm 1918, vì vậy anh ta gia nhập Hải quân Hoa Kỳ vào mùa xuân năm đó.

Năm 1921, Bogart ra mắt trong vở kịch mang tên "Drifting", và cho đến năm 1935, ông đã xuất hiện trong hơn 15 vở kịch Broadway. Năm 1930, Humphrey ra mắt bộ phim trong bộ phim “Up the River” của John Ford, và anh tiếp tục với các vai diễn trong các bộ phim như “A Devil with Women” (1931) và “Body and Soul” (1931). Năm 1936, Bogart gây chú ý trong "Khu rừng hóa đá" cùng Leslie Howard và Bette Davis, sau đó đóng vai chính trong "Black Legion" được đề cử giải Oscar. Năm 1937, Humphrey khá bận rộn khi ông lại đóng trong “Marked Woman” cùng với Bette Davis, trong “Kid Galahad” với Edward G. Robinson và Bette Davis, và trong “Dead End” được đề cử Oscar của William Wyler. Bogart kết thúc thập niên 30 với vai diễn trong “The Amazing Dr. Clitterhouse” (1938) và trong “Angels with Dirty Faces” (1938) được đề cử Oscar của Michael Curtiz cùng James Cagney và Pat O’Brien. Anh cũng đóng vai chính trong “Chiến thắng đen tối” (1939) được đề cử Oscar của Edmund Goulding cùng với Bette Davis, và trong “The Roaring Twenties” (1939) với James Cagney và Priscilla Lane. Giá trị ròng của anh ấy đã được xác lập rõ ràng vào thời điểm này.

Bogart bắt đầu những năm 40 với các phần trong các bộ phim như “Brother Orchid” (1940), “They Drive by Night” (1940) và “High Sierra” (1941), nhưng sau đó đóng vai chính trong bộ phim “The Maltese được đề cử giải Oscar” của John Huston Falcon”(1941) đã giúp anh trở thành một ngôi sao quốc tế. Bộ phim thu về hơn 1,7 triệu đô la trên toàn thế giới, con số này rất béo bở vào thời điểm đó và giúp Humphrey tăng giá trị tài sản ròng đáng kể. Sau đó, anh đóng trong "All Through the Night" (1942) và trong "Casablanca" (1943) đoạt giải Oscar của Michael Curtiz cùng với Ingrid Bergman và Paul Henreid; kiệt tác này đã mang lại cho anh ấy một đề cử Oscar đầu tiên cho Nam diễn viên chính xuất sắc nhất trong một vai chính và kiếm cho anh ấy rất nhiều tiền. Hai bộ phim này đã đưa Bogart trở thành một ngôi sao Hollywood, và anh tiếp tục đóng những bộ phim rất đáng chú ý.

Năm 1943, ông đóng vai chính trong “Hành động ở Bắc Đại Tây Dương” được đề cử giải Oscar, trong khi hai bộ phim tiếp theo của ông cũng nhận được đề cử Giải Oscar: Zoltan Korda’s “Sahara” và David Butler’s “Thank Your Lucky Stars” (1943). Vào giữa những năm 40, Humphrey đóng cùng Lauren Bacall trong “To Have and Have Not” (1944) của Howard Hawks, trong “Xung đột” (1945) và trong “The Big Sleep” (1946). Ông và Bacall đóng vai chính trong "Dark Passage" (1947), và sau đó ông đóng vai chính trong các bộ phim đoạt giải Oscar của John Huston "The Treasure of the Sierra Madre" (1948) và "Key Largo" (1948) cùng với Edward G. Robinson và Lauren Bacall.

Tình trạng y tế của Bogart không cho phép anh ấy xuất hiện thường xuyên trên màn ảnh như những năm 50 như trước đó trong sự nghiệp, nhưng anh ấy đã đóng trong một số bộ phim đáng chú ý. Vào đầu những năm 50, Humphrey có các vai diễn trong “In a Lonely Place” (1950) và “The Enforcer” (1951), trước khi giành được tượng vàng Oscar đầu tiên và duy nhất cho phim “The African Queen” (1951) của John Huston với Katharine Hepburn. Bộ phim đã thu về hơn 10 triệu đô la tại phòng vé và là một trong những bộ phim béo bở nhất trong sự nghiệp của Bogart. Anh ấy tiếp tục với “Hạn chót - Hoa Kỳ” (1952), được đề cử giải Oscar trong phim “The Caine Mutiny” của Edward Dmytryk (1954), và sau đó là phim “Sabrina” (1954) đoạt giải Oscar của Billy Wilder với Audrey Hepburn và William Holden. Những bộ phim cuối cùng của Humphrey là “The Barefoot Contessa” (1954) đoạt giải Oscar của Joseph L. Mankiewicz cùng với Ava Gardner, trong “The Desperate Hours” (1955) và trong “The Harder They Fall” (1956) đoạt giải Oscar của Mark Robson.

Về đời tư, Humphrey Bogart đã kết hôn với Helen Menken từ năm 1926 đến năm 1927, và sau đó với Mary Philips từ năm 1928 đến năm 1938. Người vợ thứ ba của ông là Mayo Methot từ năm 1938 đến năm 1945, và sau đó kết hôn với nữ diễn viên Lauren Bacall - 24 tuổi đàn em của ông - từ năm 1945 đến khi ông qua đời và có hai con với bà.

Là một người hút thuốc suốt đời, Bogart được chẩn đoán mắc bệnh ung thư thực quản vào năm 1956, và qua đời vào ngày 14 tháng 1 năm 1957 tại Los Angeles, Hoa Kỳ sau khi hôn mê.

Đề xuất: