Mục lục:

Vanessa Paradis Giá trị ròng: Wiki, Đã kết hôn, Gia đình, Đám cưới, Lương, Anh chị em ruột
Vanessa Paradis Giá trị ròng: Wiki, Đã kết hôn, Gia đình, Đám cưới, Lương, Anh chị em ruột

Video: Vanessa Paradis Giá trị ròng: Wiki, Đã kết hôn, Gia đình, Đám cưới, Lương, Anh chị em ruột

Video: Vanessa Paradis Giá trị ròng: Wiki, Đã kết hôn, Gia đình, Đám cưới, Lương, Anh chị em ruột
Video: ЛЮБОВЬ С ДОСТАВКОЙ НА ДОМ (2022). Мелодрама. Хит 2024, Có thể
Anonim

Tài sản ròng của Michelle Beisner là 150 triệu đô la

Tiểu sử về Wiki Michelle Beisner

Vanessa Chantal Paradis sinh ngày 22 tháng 12 năm 1972, tại Saint-Maur-des-Fossés, Val-de-Marne nước Pháp, cô là một ca sĩ, nhạc sĩ, diễn viên và người mẫu, có lẽ được cả thế giới biết đến với những album như “Bliss”(200),“Divinidylle”(2007), và“Love Songs”(2013), và cho cô ấy xuất hiện trên màn ảnh trong các bộ phim như“The Girl On The Bridge”(1999),“Café de Flore”(2011), và “Yoga Hosers” (2016). Cô là thành viên tích cực của làng giải trí từ năm 1981.

Bạn đã bao giờ tự hỏi Vanessa Paradis giàu cỡ nào, tính đến giữa năm 2016? Theo các nguồn tin có thẩm quyền, người ta ước tính giá trị tài sản ròng của Paradis lên tới 150 triệu USD, số tiền kiếm được nhờ sự nghiệp thành công của cô trong ngành giải trí.

Vanessa Paradis Trị giá tài sản ròng 150 triệu đô la

Vanessa là con gái của nhà thiết kế nội thất Corinne và André Paradis. Cô bắt đầu thể hiện niềm yêu thích âm nhạc khi mới 7 tuổi, và với sự giúp đỡ nhỏ từ người chú Didier Pain, một nhà sản xuất thu âm, cô đã xuất hiện trong chương trình truyền hình địa phương L’École des fans.

Cô phát hành bài hát đầu tiên của mình vào năm 1983, mang tên "La Magie des Surpris-Parties", tuy nhiên, không thành công, Vanessa không đầu hàng, và 4 năm sau, cô phát hành "Joe le Taxi", ngay lập tức trở thành một hit lớn, đứng đầu nước Pháp bảng xếp hạng, và cũng đã được phát hành ở Vương quốc Anh, nơi nó đạt vị trí thứ 3.

Album đầu tiên của cô ra mắt vào năm 1988, mang tên "M&J", và nó đã đạt vị trí thứ 13 tại Pháp và đạt được vị trí bạch kim, điều này chắc chắn đã làm tăng giá trị ròng của cô lên một khoảng lớn.

Album tiếp theo của cô ra mắt vào năm 1990, mang tên “Variations sur le Même T’aime”, cũng đạt được vị trí bạch kim và lọt vào top 10 trên bảng xếp hạng của Pháp ở vị trí thứ 6.

Hai năm sau, album thứ ba cùng tên của cô được phát hành và đây là album đầu tiên của cô đứng đầu bảng xếp hạng. Cô tiếp tục theo cách tương tự với ba album tiếp theo “Bliss” (2000), “Divinidylle” (2007) và “Love Songs” (2013) đứng đầu bảng xếp hạng Pháp và đạt được vị trí bạch kim, điều này chỉ làm tăng thêm giá trị tài sản ròng của cô.

Ngoài sự nghiệp thành công trong lĩnh vực âm nhạc, Vanessa còn là một nữ diễn viên nổi tiếng; cho đến nay cô đã xuất hiện trong hơn 20 tựa phim. Cô xuất hiện lần đầu trong Noce Blanche”(1989), và trong những năm 1990 đã có một số vai diễn đáng chú ý, trong các bộ phim như“Élisa”(1995),“Un Amour de Sorcière”(1997), và“The Girl on the Bridge”(1999) trong số những người khác.

Vai diễn đầu tiên của cô trong thiên niên kỷ tiếp theo là trong bộ phim "Trận chiến trở lại của James" vào năm 2004, và cùng năm đó cô góp mặt trong "Thiên thần của tôi". Để nói thêm về những thành tựu của cô với tư cách là một nữ diễn viên, Vanessa đã giới thiệu trong “Heartbreaker” (2010), “Low Profile” (2012), “Fading Gigolo” (2013), trong số các tác phẩm khác, tất cả đều đã làm tăng giá trị tài sản ròng của cô.

Nhờ kỹ năng của mình, Vanessa HAS đã nhận được một số giải thưởng danh giá cho cả âm nhạc và diễn xuất, bao gồm Nữ nghệ sĩ xuất sắc nhất của Victoire de la Musique, Album nhạc pop xuất sắc nhất và Video âm nhạc xuất sắc nhất. Cô đã nhận được Giải thưởng Jutra cho Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất cho bộ phim “Café de Flore” (2011) và “Giải César cho Nữ diễn viên triển vọng nhất với bộ phim“Noce Blanche”(1989).

Về cuộc sống cá nhân, Vanessa có mối quan hệ với nam diễn viên nổi tiếng Johnny Depp từ năm 1998 đến năm 2012; Trước khi chia tay, cặp đôi đã có với nhau hai mặt con. Vanessa cũng được biết đến với các mối quan hệ với những người nổi tiếng khác, bao gồm Lenny Kravitz, Florent Pagny và Stanislas Merhar.

Đề xuất: